Tư tưởng Hồ Chí Minh về "chuẩn" của người giáo viên nhân dân - một cách tiếp cận

Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành bắt đầu hành trình ra đi tìm đường cứu nước với khát vọng tột cùng cháy bỏng trong tim - tìm hiểu xem nước Pháp và các nước tiên tiến làm cách mạng như thế nào rồi về giúp đỡ đồng bào. Sau này, Người gọi đó là “ham muốn tột bậc, làm sao cho nước nhà hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, tức là trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập thực sự phải đi đôi với hạnh phúc của nhân dân, nhân dân có ăn, có mặc và được học hành, được giáo dục.

Năm 1919, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam (Revendications du peuple annamite), điều thứ 6, Nguyễn Ái Quốc đề nghị các nước đồng minh, trong đó có Pháp thực hiện “Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ” [1]. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, bên cạnh việc hoạch định nhiệm vụ chiến lược- giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp thì Nguyễn Ái Quốc cũng nêu rõ một trong các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam là thực hiện “phổ thông giáo dục theo công nông hóa” [2]. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó cho đến năm 1969, có tất cả 262 bài nói, bài viết, bài phát biểu [3] của chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về vai trò của giáo dục đặt trong tổng thể kế hoạch kiến quốc và kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

Như vậy, xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của giáo dục, cả giai đoạn trước, trong và sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Trong chiến lược “trồng người”, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vai trò, chuẩn mực của đội ngũ nhà giáo, tức là chiến lược trồng người càng quan trọng bao nhiêu thì đội ngũ “người trồng” càng quan trọng bấy nhiêu. Kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, kết hợp khảo cứu các tư liệu gốc, bài viết nhằm mục đích làm sáng tỏ một hướng tiếp cận: Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, người thầy giáo chân chính là một nhân tố quyết định sự vững chãi của bức tường giáo dục và “chuẩn” của người thầy không chỉ về phẩm hạnh và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài mà đặt trong bối cảnh gây dựng một nền giáo dục Việt Nam mới và kháng chiến kéo dài, người thầy giáo phải đặt lý tưởng sư phạm, khát vọng phụng sự Tổ quốc, nhân dân, ngành giáo dục lên trên hết, trước hết.

 “Không có thầy giáo thì không có giáo dục”

Việt Nam là một dân tộc có truyền thống trọng học, trọng đạo tôn sư- tôn kính người thầy. Truyền thống đó đã bén rễ trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trở thành một nét văn hóa đồng hành cùng với các hệ giá trị tốt đẹp của dân tộc. Là người chứng kiến trọn vẹn sự chuyển giao từ nền giáo dục phong kiến đến nhà trường thuộc địa và kiến thiết, xây dựng nền giáo dục cách mạng, hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu được rằng dù ở chế độ nào thì vai trò của người thầy luôn được đề cao. Sự khác biệt lớn ở đây đó là trong nhà trường phong kiến hay nhà trường thuộc địa thì người thầy bị bó hẹp là người dạy cho một số giai cấp tầng lớp thống trị, gia đình giàu có, có điều kiện trong xã hội, còn người thầy trong chế độ giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là người thầy giáo nhân dân, dạy học vì nhân dân, vì Tổ quốc, vì sự bảo tồn và phát triển truyền thống ham học, hiếu học, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài được trao truyền qua lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc.

Bản thân Hồ Chí Minh ngay từ nhỏ cũng đã được lĩnh hội lòng yêu nước, giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa phương Đông từ những người thầy đầu tiên là cụ thân sinh của Người- quan Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thầy Vương Thúc Quý. Trước khi bước vào hành trình 30 năm bôn ba nước ngoài, người thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng đã có quãng thời gian trở thành một người thầy giáo dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết). Khi đến nước Pháp, Người đã viết đơn xin theo học với mong muốn tiếp thu được những tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong thời gian ở Quảng Châu (1924-1927), Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tham gia đào tạo, huấn luyện các thanh niên Việt Nam yêu nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Năm 1941, sau khi trở về nước, Người cũng trực tiếp bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ cách mạng tại Cao Bằng. Khi trở thành Chủ tịch nước - tuy không đứng lớp nhưng mỗi bài nói, bài viết của người đều hướng tới mục đích đào tạo ra những cán bộ cách mạng chân chính cho Tổ quốc, nhân dân. Do đó, tiếp cận ở phương diện giáo dục- Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh không chỉ là “anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất” mà còn là một người thầy vĩ đại, tiên phong gây dựng nên một nền giáo dục Việt Nam mới - một nền giáo dục do nhân dân và vì nhân dân.

Trên nền tảng các giá trị văn hóa giáo dục truyền thống của dân tộc, trong quá trình đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của người thầy tiếp tục được bổ khuyết thêm các cơ sở lý luận khoa học. Theo học thuyết Mác - Lênin, trong chế độ mới phải làm cho giáo viên “có một địa vị mà trước đây họ chưa từng có, hiện nay vẫn không có và không thể có được trong xã hội tư sản. Đấy là một sự thật không cần chứng minh nữa. Chúng ta phải tiến tới tình hình ấy bằng cách cố gắng nâng cao một cách có hệ thống, kiên nhẫn và liên tục trình độ tinh thần của giáo viên, chuẩn bị cho họ về mọi mặt để họ đảm đương sứ mệnh cao cả của mình, nhưng việc chủ yếu vẫn là và luôn là phải cải thiện đời sống vật chất của họ” [4]. Điều đó có nghĩa là theo quan niệm mác xít, vai trò của nhà giáo là vấn đề tất yếu, khách quan và phải đi đôi với không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người giáo viên để họ duy trì động lực lao động sư phạm cao cả của mình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhà giáo được hình thành trên cơ sở kế thừa giá trị tôn sư tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tư tưởng đề cao vai trò của người thầy trong Nho giáo, tinh hoa văn hóa phương Tây, chủ nghĩa Mác - Lê nin và trực tiếp là những hoạt động của chính Nguyễn Ái Quốc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, huấn luyện cán bộ cách mạng và dạy học cho quần chúng nhân dân nơi người sinh sống, đi qua. Trong các bài nói, bài viết, lá thư gửi ngành giáo dục, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò, sứ mệnh của người giáo viên, khẳng định “nhiệm vụ của cô giáo, thầy giáo là rất quan trọng, vẻ vang” [5]. Lý giải nguyên nhân, trong Thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng (21/10/1955), Người giải thích “Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến” [6]. Cụ thể hơn, theo Hồ Chí Minh, giáo viên chính là người có trách nhiệm đào tạo ra thế hệ công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà thông qua quá trình dạy học. Nhà giáo chính là người đóng vai trò quyết định giúp người học trả lời cho câu hỏi Học để làm gì?, “a) Học để sửa chữa tư tưởng….b) Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng…c) Học để tin tưởng: Tin tưởng vào Đoàn thể. Tin tưởng vào nhân dân. Tin tưởng vào tương lai của dân tộc. Tin tưởng vào tương lai cách mạng…d) Học để hành” [7]; “Không những vậy, sự phát triển của quốc gia, dân tộc phụ thuộc phần lớn vào sự phát triển của giáo dục, trong đó có vai trò của đội ngũ nhà giáo. Theo Người, giáo viên không phải là người “gõ đầu trẻ để kiếm cơm”, mà là người “trực tiếp làm nhiệm vụ: Đào tạo những công dân tốt, những cán bộ tốt sau này, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc vững mạnh thành hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà” [8].

Như vậy, kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tinh hoa dân tộc, nhân loại, theo Hồ Chí Minh- “không có thầy thì không có nền giáo dục”. Vai trò của giáo viên trong chế độ dân chủ mới được thể hiện: Một là xóa giặc dốt, nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ cho sự nghiệp cách mạng; Hai là, giáo viên có vai trò quyết định đến chất lượng dạy học và và sự phát triển của ngành giáo dục nước nhà. Tựu trung lại, vai trò của giáo viên/ nhà giáo chính là quyết định sự khác biệt về chất giữa nền giáo dục dân chủ nhân dân với nền giáo dục thực dân và phong kiến.

Bác Hồ về thăm và nói chuyện với thầy và trò Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 21/10/1964

Nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn của người giáo viên

Trước hết phải là người có mục tiêu, lý tưởng, bản lĩnh và khát vọng

Thời đại Hồ Chí Minh gắn với bối cảnh lịch sử đầy biến động to lớn của dân tộc. Nền giáo dục Việt Nam mới được xác lập sau Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập năm 1945 nhưng phải bước ngay vào thử thách mới- đó là 30 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975). Sự nghiệp kiến thiết giáo dục trong hoàn cảnh có chiến tranh nên đòi hỏi chuẩn của người giáo viên không chỉ thể hiện ở chuyên môn, đạo đức sư phạm mà còn ở bản lĩnh, lý tưởng. Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện- theo quan niệm của Hồ Chí Minh- người thầy giáo cũng phải là người chiến sĩ trên mặt trận giáo dục. Sự nghiệp giáo dục của họ gắn bó mật thiết, nằm trong sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc. Do vậy, nhà giáo trong thời chiến trước hết phải là người có mục tiêu, lý tưởng và khát vọng, lao động sư phạm của họ phải nằm trong lời thề thiêng liêng với Tổ quốc, với nhân dân. Biểu hiện của lý tưởng, khát vọng, lập trường tư tưởng, bản lĩnh của người chiến sĩ trên mặt trận giáo dục theo quan điểm của Hồ Chí Minh bao gồm:

Một là, lấy lợi ích Tổ quốc, nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, phụng sự.

Hai là, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, đường lối của Đảng làm kim chỉ nam cho hoạt động nghề nghiệp.

Ba là, lấy hạnh phúc của người học, nhân dân, đồng bào làm động lực nuôi dưỡng động cơ lao động sư phạm, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ Tổ quốc, nhân dân, ngành giáo dục giao phó dù trên cương vị cầm bút, cầm phấn hay cầm súng, dù dạy ở miền xuôi hay đồng bào miền núi, biên cương.

Sau cách mạng Tháng Tám, một trong những nhiệm vụ cấp bách của đất nước là “kiến thiết giáo dục”, xoá nạn mù chữ cho 90% dân số. Do đó, theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ của những giáo viên bình dân học vụ chính là “chịu cực khổ khó nhọc, hy sinh phấn đấu để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hoá sơ bộ cho dân tộc… Anh chị em là những người “vô danh anh hùng”. Tuy vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh em…Cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng không bằng” [9]. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, do miền Bắc hoà bình nên nhiệm vụ của nhà giáo hướng tới phục vụ yêu cầu của cách mạng “là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà…Giáo dục phải phục vụ cho đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống nhân dân” [10]. Khi cả nước bước vào giai đoạn có chiến tranh, các nhà giáo thời đại Hồ Chí Minh trở thành người lính, nhà trường trở thành pháo đài sẵn sàng chiến đấu. Lý tưởng sư phạm của người giáo viên lúc này gắn với lý tưởng của cả dân tộc “mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới” [11], “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: người xã hội chủ nghĩa. Muốn có người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa… Các thầy, các cô giáo, các cháu cần luôn luôn bồi dưỡng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh tiêu diệt cá nhân chủ nghĩa” [12] hướng tới xây dựng trường học xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Như vậy, một người thầy giáo tốt, vẻ vang- tiếp cận từ quan điểm Hồ Chí Minh, trước hết và đầu tiên phải là người có lý tưởng sư phạm và lý tưởng đó gắn với lý tưởng yêu nước, phụng sự Tổ quốc, nhân dân lên trên hết, trước hết.

Là một nhà chuyên môn, không ngừng lao động sư phạm, sáng tạo, đổi mới cách dạy, cách học.

Theo Hồ Chí Minh, muốn tham gia vào mặt trận văn hoá giáo dục, người thầy cần phải có chuyên môn, nghiệp vụ, phải có năng lực sư phạm. Quan niệm của Hồ Chí Minh về năng lực chuyên môn được Người đề cập gián tiếp trong mối quan hệ tổng thể giữa đức và tài, hồng và chuyên của người cán bộ cách mạng, nhà giáo hoặc trực tiếp qua các bài nói chuyện, bài phát biểu, lá thư gửi ngành giáo dục. Năng lực chuyên môn của nhà giáo chính là những tri thức, học vấn chuyên môn, quan niệm của một nhà giáo chân chính về lao động sư phạm, về dạy cách học cho học trò và cả học cách dạy cho chính bản thân mình. “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà…”[13]. Trong giai đoạn miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người cùng với chính phủ đã lãnh đạo ngành giáo dục và các nhà trường phải tập trung thực hiện chủ trương của Đảng về giáo dục là đào tạo cán bộ chuyên môn, khoa học kĩ thuật. Muốn vậy, người thầy cũng phải là người có trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm. Trên cương vị chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người đã chỉ đạo ngành giáo dục đề ra các chủ trương nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, giảng viên, nhà giáo, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết 142 NQ-TW ngày 28/6/1966 Về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế nêu bật mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ bao gồm cả đội ngũ cán bộ ngành giáo dục.

Người nhắc nhở mỗi nhà giáo, mỗi người dân phải có tri thức, quan niệm đúng đắn về nghề nghiệp và hoạt động sư phạm: Nghề “thầy giáo là rất quan trọng và rất vẻ vang” [14], “ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo, thì phải sửa chữa” [15], “Thầy giáo ngày nay không phải như trước chỉ biết gõ đầu trẻ, miễn là có bài cho học trò học, cuối tháng bỏ lương vào túi. Bây giờ thầy giáo có trách nhiệm với nhân dân, đào tạo cán bộ ra phục vụ nhân dân. Cách dạy, quan niệm dạy phải khác” [16]. Người chỉ ra quan niệm về nhà trường xã hội chủ nghĩa cho các giáo viên hiểu và có nhận thức đúng, làm căn cứ để giáo viên trong các nhà trường tham gia xây dựng và vận hành nguyên lý lao động sư phạm:

“Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường:

- Học đi với lao động.

- Lý luận đi với thực hành.

- Cần cù đi với tiết kiệm.” [17]

Cái mới, cái khác trong năng lực dạy học của người thầy theo quan niệm của Hồ Chí Minh là hướng tới chất lượng “Cốt thiết thực, chu đáo hơn nhiều. Việc cốt yếu phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề; bất kỳ việc gì, chúng ta cũng phải bắt đầu từ gốc, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng. Chớ nên tham mau, tham nhiều trong một lúc”, “phải luôn dùng lời lẽ thí dụ đơn giản, thiết thực, dễ hiểu”, “trước khi nói phải nghĩ cho chín, sắp đặt cho cẩn thận” [18]. Về phương pháp, lao động sư phạm là hoạt động khơi nguồn sáng tạo cho người học, vậy nên Người khuyên “các thầy giáo, cô giáo phải tìm cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh. Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước” [19]. Đây chính là quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm, dạy cho học trò cách tư duy, phát triển tư duy và hình thành tư duy một cách sáng tạo, đem lý luận vận dụng vào thực tiễn công tác, sản xuất và chiến đấu, thực hiện tốt phương châm dạy học kết hợp với lao động sản xuất. Với tư cách là người trực tiếp tham gia đào tạo, huấn luyện cán bộ cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc), tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã được xuất bản thành tác phẩm Đường cách mệnh. Mỗi một nội dung Người soạn để dạy cho các hội viên của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Khi nói về mục đích của việc viết sách (cũng chính là soạn ra các bài giảng của các lớp huấn luyện), Người nêu yêu cầu phải giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, ngắn gọn “sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh” [20]. Điều đó cho thấy năng lực chuyên môn của người thầy một phần thể hiện trên chính nội dung chương trình, giáo án, bài giảng, không chỉ cung cấp kiến thức dễ hiểu, dể nhớ mà còn có tính giáo dục, thức tỉnh và vận dụng vào thực tiễn đấu tranh cách mạng.

Để nâng cao trình độ chuyên môn và học vấn, theo Hồ Chí Minh tự học, tự nghiên cứu, học cách dạy, học cách học là phương pháp quan trọng nhất, đặt biệt trong hoàn cảnh cách mạng và nền giáo dục nước nhà còn gặp nhiều khó khăn. Các Mác cho rẳng “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Người thầy giáo nếu ngừng hoạt động “tự giáo dục”, “được giáo dục” thì không thể khơi nguồn sáng tạo cho chính bản thân và học trò. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, khi khai lý lịch bản thân, Nguyễn Ái Quốc đã không ngần ngại ghi hai chữ “tự học” và giải thích cụ thể cách tự học của Người: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân” [21]. Bản thân người thầy giáo Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh chính là biểu tượng, tấm gương sáng ngời của tinh thần hiếu học, tự học. Để có năng lực dạy học tốt, Người nhắc nhở giáo viên “phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi, thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu” [22].

Bên cạnh đó, trong thực tiễn tổ chức lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã chủ trương, hệ thống các giải pháp để chỉ đạo ngành giáo dục nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ. Nghị quyết 142 NQ-TW ngày 28/6/1966 Về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế nêu rõ 11 giải pháp:

Thứ nhất, tăng chỉ tiêu đào tạo “rút ngắn thời gian học tập ở một số trường đại học. Sinh viên sau khi học xong các môn khoa học cơ bản, khi học sang các chuyên ngành thì có thể rút thời gian học tập tại trường mà phân phối ngay về cơ sở để vừa công tác, vừa học thêm” [23], tức là quán triệt nguyên tắc học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, học để phục vụ cuộc sống.

Thứ hai, củng cố, phát triển và sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học và trung học chuyên nghiệp bằng cách mở rộng và hoàn thiện Trường Đại học Tổng hợp, mở thêm một số trường đại học Công nghiệp, Nông nghiệp, Sư phạm, Y, Dược. Trong điều kiện có chiến tranh, thực hiện sơ tán các trường ở trung ương và tăng cường thêm hệ thống các trường ở địa phương, cố gắng tự trang, tự chế các thiết bị cần thiết cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học.

Thứ ba, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cải tiến chương trình, nội dung giảng dạy vì đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ.

Thứ tư, đặc biệt coi trọng việc giáo dục chính trị và tư tưởng cho cán bộ giảng dạy và sinh viên, học sinh “cần làm cho mọi người nhận thức đúng đắn tình hình và nhiệm vụ cách mạng hiện nay, tự giác rèn luyện mình thành những con người mới, có phẩm chất và đạo đức cộng sản chủ nghĩa, sẵn sàng đem hết tinh thần và sức lực của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước…không sợ gian khổ, hy sinh” [24].

Thứ năm, cải tiến phương pháp đào tạo cán bộ, gắn liền học tập với lao động sản xuất.

Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ các hình thức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, bao gồm các hình thức tập trung dài hạn, bổ túc và chuyên tu ngắn hạn, tại chức.

Thứ bảy, phát triển mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông và bổ túc văn hóa, đặc biệt là bổ túc văn hóa cho công nhân và nông dân lao động để tạo nguồn tuyển sinh tốt cho các trường đại học và trung cấp.

Thứ tám, tiếp tục vận động thi đua “hai tốt” (thầy dạy tốt, trò học tốt) trên ba phương diện: đức dục, trí dục, thể dục, nhằm mục tiêu thiết thực là nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, bám sát yêu cầu của chương trình cải cách giáo dục đặt ra.

Thứ chín, kết hợp việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở trong nước với đẩy mạnh đào tạo cán bộ ở nước ngoài, chú trọng đưa cán bộ đi đào tạo ở các nước có trình độ giáo dục tiên tiến, đặc biệt ở những ngành trong nước chưa có điều kiện đào tạo.

Mười là, cải tiến công tác phân phối và sử dụng cán bộ.

Mười một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, kiện toàn các cơ quan, ban, ngành liên quan đến công tác tổ chức quản lý, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

Đây là lần đầu tiên, Đảng ta đưa ra một văn kiện có tính chất chuyên đề về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ đại học và sau đại học một cách đúng đắn, sáng tạo. Do được xây dựng trên cơ sở khoa học, vì vậy Nghị quyết 142 đã trở thành khung định hướng đưa nền GDĐH phát triển trong điều kiện có chiến tranh. Qua đó cho thấy tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề xây dựng đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn chuyên môn, trình độ cao, vừa đáp ứng yêu cầu hiện tại của đất nước, của ngành giáo dục, vừa chuẩn bị cho kế hoạch kiến thiết giáo dục lâu dài của đất nước sau khi thống nhất.

Là một nhà giáo dục, một tấm gương sáng đạo đức người thầy

Ở bất kỳ chế độ nào, thể chế chính trị nào đều đã khẳng định rõ, đạo đức người thầy có sức mạnh thức tỉnh, cảm hoá vô cùng to lớn. Đạo đức nhà giáo là mẫu số chung vượt qua mọi bức tường thể chế chính trị và khuôn mẫu hệ tư tưởng. Theo nhà giáo dục Usinxki, “sự gương mẫu của người thầy giáo là tia sáng mặt trời thuận lợi nhất đối với sự phát triển tâm hồn non trẻ mà không có gì thay thế được”, “nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác” [25]. Do đó, chuẩn của người thầy theo chủ tịch Hồ Chí Minh “không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai” [26], tức là nhà giáo không chỉ bồi dưỡng cho mình lý tưởng nghề nghiệp, chuyên môn vững vàng là phải tự trau dồi và được trau dồi đạo đức sư phạm, bởi vì “óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy sự học tập ở trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên tức là tương lai của nước nhà” [27]. Không những thế, nhân dân đã đặt niềm tin và gửi gắm con em họ cho Đảng, Chính phủ nên theo Người, đội ngũ giáo viên cần phải xây dựng những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp xứng đáng với niềm tin, sự tín nhiệm của nhân dân, tức là người giáo viên phải có tư cách đạo đức nghề nghiệp.

Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức chung của người cách mạng: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Thương yêu con người, sống có tình nghĩa; Có tinh thần quốc tế trong sáng… thì đạo đức nhà giáo - theo quan niệm của Hồ Chí Minh còn có những điểm riêng sau:

Thứ nhất, phải có chí khí cao thượng. Việc kiến thiết nền giáo dục Việt Nam mới rất cần đội ngũ nhà giáo có chuyên môn nhưng phải có người gương mẫu tiên phong, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu Tổ quốc cần để đem tri thức đến cho đồng bào. Người căn dặn “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng” [28]. Người dành lời khen tặng cho tấm gương các thầy giáo, cô giáo trẻ trường Đại học sư phạm Hà Nội “xung phong đi miền núi, để đưa cái hiểu biết văn hoá lên cho đồng bào vùng cao” và người nhấn mạnh “đó là thầy giáo anh hùng” “những anh hùng vô danh” “dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương” [29].

Thứ hai, phải yêu nghề, yêu trò, đoàn kết và gương mẫu, “thật thà phụng sự nhân dân”, phụng sự cho ngành giáo dục. Trong thư gửi giáo sư và sinh viên trường dự bị đại học ở Thanh Hoá (7/1952), Người căn dặn “trong phong trào toàn dân thi đua. Thầy thi đua dạy, trò thi đua học. Thầy và trò thật thà đoàn kết và dùng cách dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình) để giúp nhau tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi” [30]. Đoàn kết trong giáo dục ở đây được Người giải thích đó là “đoàn kết giữa thầy giáo với thầy giáo, giữa thầy giáo với học trò, giữa học trò với học trò, giữa nhà trường, thầy giáo, học trò với đồng bào địa phương” [31].

Thứ ba, trong thực hành đạo đức sư phạm, Người nhắc nhở mỗi thầy cô giáo phải luôn quán triệt tinh thần nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức; lý luận gắn với thực tiễn, tự phê bình và phê bình, gương mẫu thực hiện đạo đức người giáo viên nhân dân. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, giáo dục cũng là một mặt trận, nền giáo dục mới cần loại bỏ những hậu quả của nền giáo dục do chế độ thực dân, phong kiến để lại. Vậy nên, thầy cô giáo càng cần “nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nhà trường, thực hiện tốt phương châm nhà trường gắn chặt với xã hội, học đi đôi với hành”, thầy cô giáo mẫu mực trong thực hành đạo đức nhà giáo sẽ là là tấm gương dạy cho người học “đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia lao động và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi giảng dạy và học tập, thầy giáo và học trò cần phải luôn luôn nhớ đến cuộc đấu tranh gian khổ và anh dũng của đồng bào ta ở miền Nam” [32].

Trong mối quan hệ giữa tài năng và đạo đức của người giáo viên, Hồ Chí Minh đánh giá cao tầm quan trọng của cả hai yếu tố đạo đức và chuyên môn, trong đó đạo đức được Người đề cao hơn. Người nói “Ta là cán bộ chuyên môn, có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng. Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn. Nếu thầy giáo, cô giáo bàng quan thì lại đúc ra một số công dân không tốt, cán bộ không tốt” [33]. Và muốn giáo dục toàn diện cho học trò thì nhà giáo phải “chú ý giáo dục chính trị tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ về tư tưởng” [34].

Bên cạnh các “chuẩn” của người giáo viên nêu trên, trực tiếp hay gián tiếp trong các bài nói, bài viết hoặc trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh còn nêu ra những vấn đề về khả năng tuyên truyền, thuyết phục, vận động (năng lực giao tiếp), vấn đề học ngoại ngữ, vấn đề không ngừng học tập các nước về khoa học, kỹ thuật và động viên đội ngũ cán bộ khắc phục khó khăn để ngày càng tiến bộ hơn nữa. Chính quá trình học tập và hoạt động cách mạng bền bỉ không mệt mỏi đã giúp Người có một cơ sở thực tiễn phong phú để hoạch định một kế hoạch kiến thiết nền giáo dục tương lai của nước nhà theo hướng toàn diện, không chỉ “mới” về mục tiêu, phương châm mà còn mang tính hội nhập quốc tế “không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân” [35]. Do đó “phải tranh thủ trong một thời gian tương đối ngắn, xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế đông đảo, vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và ngành, nghề, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững được những quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội, có năng lực tổ chức và động viên quần chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế do thực tiễn nước ta đề ra, và có khả năng tiến kịp trình độ khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới” [36].

Thực tiễn cho thấy, nhờ có sự nhạy bén, sáng suốt trong đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt và điểm xuất phát cơ sở vật chất khó khăn, nền giáo dục Việt Nam nói chung và công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn mà chúng ta có thể gọi là kì tích- đào tạo được một đội ngũ cán bộ khá đông đảo cán bộ chuyên môn, đội ngũ nhà giáo chuẩn về lý tưởng, chuyên môn và đạo đức, có tinh thần hăng hái làm việc tận tụy, cống hiến, phụng sự hết mình cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp trồng người.

 

Từ các luận điểm trên có thể thấy, các quan điểm trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà giáo bao gồm một hệ thống luận điểm toàn diện về vai trò, vị trí, nhiệm vụ, chuẩn của người giáo viên trong nền giáo dục Việt Nam mới. Đồng thời, “chuẩn” của người giáo viên nhân dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh trước hết là chuẩn về tư tưởng, lý tưởng nghề nghiệp sau mới đến chuẩn về đạo đức, chuyên môn, ngoại ngữ, khoa học kĩ thuật.

Những triết lý, quan điểm của Người như một sự định hướng về tư tưởng, kim chỉ nam cho nền giáo dục trong bối cảnh kháng chiến vô cùng khó khăn, góp phần đào tạo một thế hệ nhà giáo mẫu mực, gạo cội cho ngành giáo dục Việt Nam thế kỷ XX. Các nhà khoa học, nhà giáo dục gạo cội của nước nhà hôm nay đều được sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ nền giáo dục in đậm khói lửa chiến tranh và chính những “người anh hùng vô danh” hay hữu danh đó đã đặt nền móng vững chắc cho bước phát triển của giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập về sau. Những quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh qua sự kiểm chứng của lịch sử trở thành những định hướng tư tưởng quan trọng và gợi mở một số hàm ý:

- Đã là người thầy giáo- dù là anh hùng vô danh hay hữu danh thì trước hết cần xây dựng một ý thức hệ nghề nghiệp, lý tưởng sư phạm và lấy mục tiêu phụng sự Tổ quốc, nhân dân, sự phát triển của giáo dục và hạnh phúc của học trò làm động lực. Sự kiên định với lý tưởng nghề nghiệp là hành trang đầu tiên cho bất kì một sinh viên sư phạm nào đang được đào tạo để trở thành một người giáo viên chân chính hay nói cách khác, trong công tác đào tạo giáo viên, quan trọng và trước hết là sự trang bị kiến thức nhập môn về người thầy và nghề thầy.

- Trong Luật giáo dục (2019) (Chương IV, mục 1, điều 66) đã cho thấy sự kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh “không có người thầy thì không có giáo dục” khi khẳng định nhà giáo “có vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế quan trọng trong xã hội, được xã hội tôn vinh”. Việc thừa nhận vai trò của nhà giáo cần đi đôi với các chính sách với nhà giáo nhằm khơi nguồn động lực và phát huy tối đa năng lực, phẩm chất của nhà giáo cho sự nghiệp giáo dục, đặc biệt là các nhà giáo công tác tại các địa bàn khó khăn.

- Thông tư số số 20/2018/TT-BGDĐT chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông được ban hành năm 2018 với 5 nhóm tiêu chuẩn, 15 tiêu chí về phẩm chất và năng lực giáo viên, về bản chất đều xoay quanh các trục “tiêu chuẩn” nhà giáo như quan điểm của Hồ Chí Minh nhưng được vận dụng trong bối cảnh lịch sử mới của đất nước và ngành giáo dục. Tuy nhiên, trong 5 tiêu chuẩn và 15 tiêu chí chưa bao hàm tiêu chí về lý tưởng sư phạm hay năng lực chủ động ứng phó với hoàn cảnh (năng lực thích ứng), “biến khó khăn thành thuận lợi trong giáo dục” -yếu tố cần được trang bị, rèn luyện cho mỗi nhà giáo trong bối cảnh những tác động từ ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và chiến lược chuyển đổi số trong giáo dục Việt Nam hiện nay.

Có thể nói, cả cuộc đời và sự nghiệp, Hồ Chí Minh không chỉ là người tìm ra đáp số cho bài toán độc lập dân tộc mà cha ông mấy mươi năm tìm kiếm- một “anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất”- mà trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có giáo dục, Người luôn thể hiện vai trò của một nhà kiến trúc sư tiên phong, gương mẫu kiến thiết diện mạo mới cho nền giáo dục Việt Nam mới. Quan niệm của Người về vai trò và chuẩn của người giáo viên nhân dân, tư tưởng học để làm người, dạy học để phụng sự Tổ quốc, nhân dân, học trò… đã đưa vị trí của người thầy lên tột cùng của sự tôn vinh và trở thành bài học quý giá cho các thế hệ giáo viên, sinh viên sư phạm và công cuộc đổi mới giáo dục nước nhà.

 

Nguyễn Thanh Tùng - Giảng viên Khoa LLCT - GDCD

Tài liệu tham khảo

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.441.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.

[3] Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đăng Tiễn, Bùi Đức Thiệp (sưu tầm và soạn thảo), Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990 (tư liệu 1).

[4] C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I. Lê nin, I.V. Stalin, Bàn về giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.276.

[5] Đào Thanh Hải, Minh Tiến (sưu tầm và tuyển chọn, 2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.268.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.185.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.360

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.271

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.556.

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.647.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.344.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.595.

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.40

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.508.

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.403.

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.389.

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.594.

[18] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.346.

[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.291.

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.283.

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.361.

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.274.

[23], [24] Nghị quyết số 142-NQ/TW ngày 28-6-1966 của Bộ Chính trị khóa III Về việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế.

[25] Usinxki, Danh ngôn về sự gương mẫu của người thầy.

Nguồn: http://khotangdanhngon.com/su-guong-mau-cua-nguoi-thay...

[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.345.

[27] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.120.

[28] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr.403.

[29] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr.403.

[30] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr.400.

[31] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr.436.

[32] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr.746.

[33] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr.269.

[34] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr.269.

[35] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr.377

[36] Nghị quyết số 142-NQ/TW ngày 28-6-1966 của Bộ Chính trị khóa III Về việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế

......

 


Source: 
20-11-2021
Tags