Những ngày tháng Tám sôi sục ở Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20; đồng thời là cuộc đấu tranh mở đầu cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á và châu Phi trong khối thuộc địa Pháp và là dấu mốc quan trọng đưa Việt Nam tham gia vào hệ thống Xã hội chủ nghĩa sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc.
Cách mạng tháng Tám đã để lại bài học kinh nghiệm quý giá về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp tất cả lực lượng yêu nước trong Mặt trận Dân tộc thống nhất là nhân tố quyết định làm nên thành công của cách mạng tháng Tám năm 1945.
Bài học kinh nghiệm đó vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ở Việt Nam hiện nay.
Bối cảnh tình hình và sự chuyển hướng chỉ đạo của Đảng Cộng sản
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã để lại hậu quả nặng nề trên mọi mặt đời sống xã hội. Năm 1939 cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra. Chính phủ Pháp ra lệnh giải tán Đảng Cộng sản Pháp và các tổ chức dân chủ, tiến bộ ở Pháp và ở các nước thuộc địa Pháp. Tại Đông Dương, đế quốc Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng.
Sau khi Pháp ký hiệp ước đầu hàng phátxít Đức-Italy (ngày 22/6/1940), chính phủ phản động làm tay sai phátxít ở Pháp được thành lập do Pê-tanh làm Thủ tướng. Do những diễn biến chính trị ở Pháp đã làm cho tình hình Đông Dương biến chuyển sang một hướng mới.
Ngày 22/9/1940, quân Nhật vượt biên giới Việt-Trung đánh vào Lạng Sơn và cho 6.000 quân đổ bộ lên Đồ Sơn (Hải Phòng), chính thức phát động chiến tranh xâm lược Đông Dương. Quân Pháp ở Đông Dương nhanh chóng đầu hàng và ký hiệp ước với Nhật Bản, theo đó Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Pháp và Nhật Bản.
Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và Đông Dương, Đảng Cộng sản đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và phương thức hoạt động.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu họp tại Bà Điểm (Gia Định) ngày 6/11/1939 đã nêu rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng” Mục tiêu đề ra là phải đánh đổ đế quốc Pháp-Nhật và tay sai, giải phóng Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Trong tình hình mới, hình thức đấu tranh thay đổi so với trước, tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai. Không nêu khẩu hiệu lập Chính phủ XôViết công nông binh mà đề ra khẩu hiệu thành lập Chính phủ liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương.
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay thế Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc để đấu tranh chống chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, giải phóng dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Lực lượng của Mặt trận Dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm công nhân, nông dân đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn; đồng minh tạm thời, hoặc trung lập với tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vấn đề giải phóng dân tộc giờ đây được đặt lên trên hết.
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ bảy họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6 đến ngày 9/11/1940, vấn đề đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc trong Mặt trận tiếp tục được khẳng định: “Mặt trận dân tộc phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mạng phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện việc thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy bằng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp-Nhật và các lực lượng ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hạng phản bội quyền lợi dân tộc, làm cho Đông Dương hoàn toàn giải phóng.”
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941,vấn đề đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng lại tiếp tục được được bổ sung và hoàn chỉnh.
Hội nghị chỉ rõ việc thực hiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng đầu, đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và đô thị, tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, tích cực chuẩn bị lực lượng đón thời cơ để khởi nghĩa.
Hội nghị chủ trương tạm thời gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và nêu thêm khẩu hiểu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, thực hiện “người cày có ruộng.” Sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật, tiến tới thành lập chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mối quan hệ giữa ba dân tộc ở Đông Dương được giải quyết đúng đắn ở trong khuôn khổ của từng nước, do đó đã góp phần tăng cường khối đoàn kết giữa ba dân tộc Đông Dương.
Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. Chương trình cứu nước của Việt Minh được đúc kết thành 10 chính sách lớn và sau này trở thành những chính sách cơ bản của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có thể nói, Hội nghị Trung ương lần thứ tám (1941) đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (1939), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám là một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng tháng Tám 1945.
Đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương , trong năm 1943-1944, hầu hết các đảng bộ địa phương thuộcvùng đồng bằng Bắc Bộ đã lãnh đạo, xây dựng và củng cố các đoàn thể Việt Minh ở nông thôn và thành thị. Tổ chức Việt Minh phát triển mạnh trong các nhà máy, trường học và trên nhiều đường phố.
Năm 1943, Đảng Cộng sản đưa ra Đề cương văn hóa Việt Nam, trong đó vạch nhiệm vụ trước mắt của các nhà văn hóa Việt Nam là chống lại văn hóa phátxít và phong kiến lạc hậu, xây dựng nền văn hóa “dân tộc, khoa học và đại chúng.”
Năm 1943, Hội văn hóa cứu quốc thành lập, thu hút các trí thức, các nhà văn hóa tham gia. Để mở rộng thêm Mặt trận Việt Minh, tháng 6/1944 các nhà trí thức yêu nước tập hợp lại để thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam và tham gia vào Mặt trận Việt Minh làm cho Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phátxít thêm sâu rộng.
Cùng với phong trào của công nhân ở các đô thị, phong trào nông dân chống nhổ lúa trồng đay,chống nhổ ngô trồng thầu dầu, chống cướp lúa, cướp đất, chống đi phu do Việt Minh tổ chức đã thu nhiều kết quả. Công tác vận động binh sỹ Việt Nam trong quân đội Pháp cũng được tăng cường, kết quả đã có nhiều binh lính quay sang hàng ngũ của Việt Minh. Ngoài ra, Đảng Cộng sản còn tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc và tranh thủ vận động Việt kiều ở nước ngoài tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Chủ trương đoàn kết toàn dân, tâp hợp mọi lực lượng của Đảng và của Mặt trận Việt Minh đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị lực lượng cách mạng để chuyển cách mạng sang thời kỳ tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Đoàn kết toàn dân tộc, khởi nghĩa từng phần, Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
Cuối năm 19944 đầu năm 1945, Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandie của liên quân Anh-Mỹ mở đầu “mặt trận thứ hai” trên chiến trường Tây Âu để phối hợp Hồng quân Liên Xô tiến công giải phóng các nước ở Trung Âu, Đông Âu và tiến vào giải phóng Beclin. Ngày 8/5/1945, phátxít Đức đầu hàng không điều kiện quân Đồng minh.
Trên chiến trường châu Á-Thái Bình Dương, quân đội phátxít Nhật liên tiếp gặp thất bại.Tại Đông Dương, tình hình cũng chuyển biến rất mau lẹ. Cho đến trước ngày đảo chính Pháp, quân Nhật có 60.000 quân tập trung ở vùng đồng bằng Bắc Kỳ và Nam Kỳ, đóng chốt theo thế cài răng lược với quân đội Pháp.
Đúng như dự đoán của Đảng Cộng sản, ngày 9/3/1945, Nhật thực hiện chiến dịch MEIGO SAKUSEN (chiến dịch Ánh trăng - Bright Moon Operration) đảo chính Pháp. Quân Nhật nhanh chóng chiếm hầu hết các cơ quan trọng yếu của Pháp ở Sài Gòn như Dinh toàn quyền, Sở Bưu điện, Nhà ga, Sở Cảnh sát, Ngân hàng Đông Dương. Toàn quyền Decoux đã phải than vãn: “Thế là hết!... Điều không thể sửa chữa được đã trở thành sự thật.” Quân Pháp đầu hàng, một số quân Pháp đóng gần biên giới đã chạy sang Trung Quốc.
Ngay trong đêm ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội nghị xác định phátxít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể trước mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương. Thay khẩu hiệu đánh đuổi Nhật-Pháp bằng khẩu hiệu đánh đuổi phátxít nhật.
Hội nghị quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam giải phóng quân, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng ở những vùng du kích hoạt động.
Ngày 12/3/1945, Đảng ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Trong bản Chỉ thị đã nhấn mạnh phải mở rộng cơ sở của Mặt trận Việt Minh nhằm đoàn kết mọi lực lượng vào cao trào kháng Nhật, cứu nước. Thực hiện việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện chính sách đoàn kết, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ mọi lực lượng, kể cả một bộ phận quan lại trong chính quyền tay sai.
Ngày 14 và ngày 15/4/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc đẩy mạnh hơn công tác vận động quần chúng công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ công chức, đồng bào theo đạo, các đảng phái; đồng thời nhấn mạnh việc thi hành 10 chính sách của Việt Minh.
Đáng chú ý là Đảng Cộng sản đã đề ra khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói.” Đây là khẩu hiệu rất kịp thời, phù hợp tình hình và đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo quần chúng, có tác dụng thúc đẩy, phát động quần chúng vùng lên đấu tranh. Điều đó không chỉ có ý nghĩa kinh tế trước mắt, mà còn có ý nghĩa chính trị quan trọng.
Phong trào phá kho thóc để chia thóc cứu đói, cùng với phá chính quyền của địch đã làm cho uy tín của Việt Minh ngày càng tăng cao. Tại những nơi nổ ra cướp thóc cứu đói lên cao thì mọi mặt đấu tranh đều phát triển và mặt trận không ngừng mở rộng.
Ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh lan rộng trong cả nước, tại hầu hết các tỉnh, thành phố đã có cơ sở của Việt Minh trong công nhân, nông dân, trong phong trào thanh niên, học sinhvà cả trong các đơn vị bảo an binh. Nhất là tổ chức Thanh niên tiền phong phát triển rất mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc giành chính quyền trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám tại các huyện, tỉnh, thành phố, nhất là ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ.
Đầu tháng 8/1945, tình hình chuyển biến rất nhanh. Ngày 6/8/1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Ngày 8/8/1945 Hồng quân Liên xô tiến công quân Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc và nhanh chóng đánh bại gần 1 triệu quân của đạo quân Quan Đông của Nhật tại đây. Ngày 9/8/1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Nagasaki. Ngày 15/8/1945, Nhật Hoàng công bố đầu hàng không điều kiện quân Đồng minh.
Trước tình hình khẩn cấp, từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, Trung ương Đảng họp hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh của dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta.”
Nghe theo tiếng gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 25 triệu dân Việt Nam đã nhất tề đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 diễn ra nhanh chóngtrong vòng 12 ngày đã giành được thắng lợi, chính quyền của đế quốc và phong kiến đã hoàn toàn sụp đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập ở hầu khắp các địa phương trong cả nước.
Bài học về coi trọng việc đoàn kết, tập hợp lực lượng công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, tiểu thương, tư sản, địa chủ, binh lính, không phân biệt dân tộc, đảng phái, tôn giáo để tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc trong Mặt trận Việt Minh để đánh đổ chính quyền của đế quốc phátxít và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, xây dựng chính quyền nhân dân trong cách mạng tháng Tám 1945 vẫn còn giá trị cho hiện nay./.
PGS. TS. Đinh Quang Hải
Viện Trưởng Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Nguồn: tuyengiao.vn