1. Vai trò của Khoa học Xã hội nhân văn trong đào tạo đội ngũ nhà giáo
Khoa học xã hội nhân văn (KHXHNV) giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội, cũng như việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách. Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, KHXHNV có nhiệm vụ góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và trở thành công cụ sắc bén trong việc đổi mới tư duy, xây dựng luận cứ khoa học cho con đường đi lên CNXH ở nước ta, xây dựng lập trường, quan điểm đúng đắn, xây dựng ý thức và nhân cách XHCN. Khoa học xã hội nhân văn gúp định hướng phát triển con người, liên quan chặt chẽ đến những vấn đề về con người, nó chính là ngành khoa học hướng con người tới chân - thiện - mỹ, mà ít ngành khoa học có thể thay thế.
Trong giáo dục - đào tạo hiện nay, những nước tiên tiến đặc biệt coi trọng giáo dục nhân sinh quan, thế giới quan cho thế hệ trẻ. Ở các nước phát triển nhất hiện nay như Mỹ, Nhật Bản... trong khi nhấn mạnh những ngành khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, họ cũng không hề lơi lỏng khoa học xã hội nhân văn trong đào tạo thế hệ trẻ. Nhiều trường hợp khi tuyển đầu vào của ngành khoa học tự nhiên - công nghệ, một môn trong ngành khoa học xã hội nhân văn như môn Lịch sử, thí sinh cũng phải thi.
Khoa học xã hội nhân văn có sứ mệnh cung cấp nguồn nhân lực, đào tạo những sinh viên Sư phạm có trình độ và năng lực đảm nhiệm các công việc giảng dạy, nghiên cứu, quản lý... để sau khi ra trường có thế đảm nhiệm tốt công việc được giao phó.
Trong đội ngũ đó đại bộ phận sẽ trở thành nhà giáo (từ phổ thông đến đại học). Họ có nhiệm vụ truyền đạt những tinh hoa của dân tộc, qua đó giáo dục nhiều thế hệ tiếp nối có phẩm chất, có kiến thức vững chắc để gánh vác công việc của đất nước. Đây là công việc của ngành Sư phạm, của Khoa học giáo dục và của toàn xã hội.
Kinh nghiệm xưa nay là phải có những giáo viên giỏi về khoa học cơ bản nói chung và khoa học xã hội nói riêng thì mới giảng dạy tốt, mới phát triển khoa học giáo dục một cách vững chắc.
2. Những đóng góp về nghiên cứu và giảng dạy của Khoa học xã hội nhân văn trong đào tạo đội ngũ nhà giáo
Khoa học xã hội nhân văn đã có những bước tiến dài và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết phải khẳng định rằng, cùng với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, KHXHNV đã cung cấp được những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng những nghị quyết của Đảng trong nhiều năm qua. Nhờ đó, nhân tố con người được phát huy như một động lực chủ yếu tạo ra những chuyến biến nhanh chóng trong tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống, đẩy mạnh sản xuất, từng bước mở rộng thị trường và tạo điều kiện để chuyển giao công nghệ mới... đã góp được một phần nào đó vào việc tạo ra những tiền đề cho sự cất cánh của đất nước.
Trong đào tạo, hàng năm, các cơ sở đã cho ra trường hàng chục ngàn cử nhân khoa học xã hội nhân văn phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguồn lao động trí thức được đào tạo bài bản, có kiến thức cơ bản vững vàng về chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ, có năng lực đáp ứng đòi hỏi của xã hội. Một bộ phận được đào tạo ở bậc sau đại học, có trình độ cao, đảm đương tốt được những nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của xã hội, là hạt nhân của các trường đại học hay viện nghiên cứu.
Đội ngũ cán bộ giảng dạy là lực lượng quyết định chất lượng đào tạo. Trong hơn hai thập niên gần đây, đội ngũ này có sự phát triển về số lượng và nâng cao về chất lượng. Nhiều cán bộ có điều kiện đi tu nghiệp ở nước ngoài ngắn hay dài hạn, ở nhiều nước có nền văn hóa khác nhau, khả năng cập nhật thông tin được mở rộng, điều kiện tiếp xúc với học giả nước ngoài thuận lợi, đã sử dụng ngoại ngữ tương đối thành thạo. Nhiều người tuy được đào tạo ở trong nước nhưng có chí vươn lên, khắc phục khó khăn để trau dồi chuyên môn, học giỏi ngoại ngữ. Đây là vốn quý cho các trường đại học và cũng là cơ sở để mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế. Lực lượng cán bộ này đã phát huy tốt trong các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy cũng như quản lý.
Ngành KHXHNV đã biên soạn được một khối lượng tài liệu tham khảo nhiều hơn, phong phú hơn. Các giáo sư, các bậc thầy của KHXH đã viết giáo trình cho ngành khoa học xã hội nhân văn, ngoài việc tiếp thu những thành tựu của nhân loại, của các nhà nghiên cứu, tổng hợp những sự kiện đã diễn ra ở nước nhà và trên thế giới, đã sáng tạo, tìm ra mối liên hệ giữa các sự kiện, rút ra bản chất, chỉ ra nguyên nhân, đưa ra những đánh giá bảo đảm tính tư tưởng, khoa học cao, có giá trị... Các Khoa xã hội của khối Sư phạm luôn tự hào về các nhà giáo, các nhà KHXH nổi tiếng, luôn sánh vai và có nhiều thầy cô còn được xã hội đánh giá cao hơn vài cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác.
Tuy nhiên việc nghiên cứu và giảng dạy các môn KHXHNV còn một số hạn chế: Hiện nay đang có sự thiếu hụt cán bộ trong nhiều ngành chuyên môn, số cán bộ giảng dạy có bề dày, có uy tín chuyên môn cao, đầu ngành giảm dần, số tiến sĩ, thạc sĩ mới chưa thay thế được các bậc lão thành về chuyên môn. Trong khi đội ngũ cán bộ có trình độ cao hiện nay ngày càng cao tuổi thì thế hệ trẻ không có nhiều người thiết tha đi vào con đường nghiên cứu khoa học. Điều này càng tăng thêm nguy cơ tụt hậu về trí tuệ của dân tộc trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão. Từ đó, nguy cơ lệ thuộc vào nước ngoài sẽ tăng lên, không những chỉ về kỹ thuật và công nghệ nhập trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà cả về đường hướng phát triển giáo dục và đào tạo.
Cán bộ giảng dạy chưa thực sự dành nhiều thời gian và công sức trong nghiên cứu chuyên môn. Không ít giảng viên thiếu quan tâm đến những vấn đề chính trị của đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và do vậy chưa lồng ghép những diễn biến của tình hình vào trong bài giảng và công trình nghiên cứu của mình. Cũng do không nắm chắc quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, không hiểu rõ thực tiễn xã hội và những khó khăn của bước phát triển nên trong quá trình hội nhập quốc tế, khi tiếp xúc với nước ngoài hoặc tham khảo tài liệu nước ngoài thì có cái nhìn còn sai lệch về quá khứ, chê bai hiện tại của nước mình mà không sàng lọc cái đúng, cái sai, chọn lọc kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn và nhất là không thấy trách nhiệm bản thân trong công việc chung của đất nước.
Sinh viên tốt nghiệp còn thiếu vắng đáng kể những kiến thức cơ bản tối thiểu, thiếu kỹ năng tự đổi mới, nắm lý thuyết, những kỹ năng thực hành yếu. Nhận thức chính trị và nhận thức xã hội thấp, không nắm chắc được những vấn đề chính yếu của đất nước, của thế giới, những vấn đề có tính thời sự, thờ ơ với những vấn đề xã hội. Thiếu tự tin, không dám khẳng định cái đúng - cái sai, không biết diễn đạt ý tưởng của mình, ít sáng tạo trong tư duy, thường lặp lại bài giảng của thầy hay ý kiến của người khác...
Trình độ ngoại ngữ yếu, năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ trong nghiên cứu hạn chế.
Chương trình đào tạo khoa học xã hội nhân văn của Việt Nam có một độ vênh rất lớn khi so với chương trình của nước ngoài, mặc dù đều ít nhiều có tham khảo tài liệu của các nước tiên tiến. Do đó, đi học ở nước ngoài, hầu hết sinh viên, cán bộ phải học lại hoặc bổ túc thêm kiến thức. Ngược lại, ít người nước ngoài muốn lấy tấm bằng đại học Việt Nam mà thường học một thời gian, một số môn cần thiết để về nước thi lấy bằng của họ. Đây chính là lý do cơ bản hạn chế khả năng hội nhập của đại học Việt Nam với quốc tế, bằng cấp của đại học Việt Nam chưa được công nhận giá trị tương đương với thế giới. Và hiện nay nếu có bằng quốc tế thì không phải là bằng theo đúng chất lượng cần có.
Tỷ lệ giữa khối kiến thức chung với kiến thức chuyên ngành chưa hợp lý. Nhiều chương trình còn nặng về lý thuyết, ít thời gian cho thực hành, thực tập. Vấn đề giáo trình, giáo khoa và hệ thống giáo trình chưa đồng bộ, nhiều tài liệu dùng cho đào tạo còn lạc hậu, chưa mang tính cập nhật.
Sở dĩ có tình trạng trên, chúng tôi cho rằng có một số nguyên nhân khách quan và chủ quan sau đây:
Chúng ta đang đứng trước một thách thức lớn là yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao, trong khi đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia khoa học đầu ngành còn mỏng và tuổi đời đã cao, lực lượng cán bộ khoa học trẻ chậm được bổ sung, khoảng cách giữa các thế hệ khoa học không dễ khắc phục, số đông đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, có tâm huyết muốn đem tài năng trí tuệ phục vụ đất nước, nhưng một bộ phận cán bộ thiếu yên tâm phấn khởi, chưa toàn tâm, toàn ý cống hiến cho sự nghiệp khoa học. Đây là một khó khăn thực sự khi khoa học xã hội nhân văn đứng trước những nhiệm vụ lớn lao và đòi hỏi của một giai đoạn phát triển mới đầy năng động của đất nước.
Vị trí của Khoa học xã hội nhân văn chưa được coi trọng đúng mức trong nghiên cứu và đào tạo. Học ngành Khoa học xã hội nhân văn khi tốt nghiệp khó xin việc, thị trường để hành nghề cũng hạn hẹp... Chính sai lầm trong việc đối xử với những môn Khoa học xã hội nhân văn đã làm chậm sự phát triến của các ngành này, đồng thời làm thấp mặt bằng văn hoá của xã hội.
Trong hệ thống giáo dục, nhiều ngành Khoa học xã hội nhân văn, như Lịch sử, Địa lý... ở phổ thông chỉ được xem là những môn phụ. Hiện nay ở trung học phố thông, rất ít học sinh đăng ký vào ban Khoa học xã hội nhân văn, hầu hết đều vào ban Khoa học tự nhiên.
Một nguyên nhân nữa là trong mấy năm gần đây lại nâng cấp, mở thêm quá nhiều trường đại học, trong khi chưa có sự chuẩn bị về cơ sở vật chất. Các trường mới thành lập chỉ lo giảng dạy, còn nghiên cứu khoa học lại là mảng trống.
Trong các ngành khoa học xã hội nhân văn nói chung, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn và lạc hậu, không đủ điều kiện cho nghiên cứu, giảng dạy. Do cơ sở vật chất, tổ chức lớp học (lớp quá đông). Giáo viên muốn dạy đổi mới thì số lượng sinh viên một lớp phải ít, lớp đông thì chỉ có thể dùng thuyết trình, giảng là chủ yếu.
Đời sống vật chất và điều kiện làm việc của cán bộ hết sức thiếu thốn, nhất là giảng viên trẻ. Cho nên thời gian cho nghiên cứu cơ bản, đi sâu nâng cao chất lượng bài giảng là rất hạn chế.
3. Một số giải pháp nhằm kết hợp giữa Khoa học cơ bản và Khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên
3.1. Xây dựng Chiến lược phát triển Khoa học Giáo dục Việt Nam và Chiến lược tổng thể phát triển Khoa học xã hội Việt Nam (gắn liền với Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược phát triển Giáo dục giai đoạn 2011 - 2020)
Đánh giá lại một số vấn đề sau: Thực trạng cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu khoa học và đào tạo, tiềm năng và nội lực của lực lượng cán bộ, khoa học giáo dục, Khoa học cơ bản, trong đó có khoa học xã hội; trên cơ sở đó, tổ chức lại hệ thống nghiên cứu và đào tạo theo hướng gắn kết hữu cơ giữa nghiên cứu và đào tạo, vừa chú trọng liên ngành vừa chú trọng chuyên ngành, nghiên cứu cơ bản.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực về nghiên cứu, giảng dạy với cơ cấu hợp lý, đồng bộ, có sự tiếp nối giữa các thế hệ khoa học. Chú trọng việc đào tạo, đào tạo lại và đào tạo nâng cao đội ngũ cán bộ khoa học của các đại học.
Giao việc nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu giáo dục cho cán bộ giảng dạy các trường đại học nói chung và các trường khối Sư phạm nói riêng nhiều hơn nữa để giao lưu và sớm bắt kịp trình độ khoa học khu vực và quốc tế.
Nhà nước tăng đầu tư cho khoa học cơ bản, khoa học giáo dục, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất và trang thiết bị kĩ thuật đồng bộ cho các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cho các trường đại học và các viện nghiên cứu thuộc hệ thống Sư phạm.
3.2. Đổi mới cơ chế quản lý đối với Khoa học xã hội và Khoa học giáo dục
Thực sự coi trọng vai trò của Khoa học giáo dục. Đẩy mạnh nghiên cứu Khoa học giáo dục, gắn với nghiên cứu khoa học với đào tạo, sản xuất và đời sống, giải quyết tốt những vấn đề lí luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới giáo dục. Chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng; không để tồn tại các trường đào tạo giáo viên có chất lượng kém, giải thể những trường không đảm bảo về đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất. Đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng và tôn vinh cán bộ khoa học giáo dục và khoa học cơ bản. Tăng cường nguồn lực cho giáo dục: Không ngừng đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục... Đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục - đào tạo nhằm góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, mở rộng qui mô và đảm bảo công bằng trong giáo dục.
Cần tính đến đặc thù của khoa học xã hội trong việc đào tạo giáo viên và tạo điều kiện phát huy sáng tạo của các nhà khoa học xã hội. Thực sự cầu thị, tạo mọi điều kiện cho sự sáng tạo của đội cán bộ nghiên cứu, nhà giáo của các trường, các khoa xã hội trong hệ thống đại học của nước ta.
Giao nhiệm vụ, tạo điều kiện thuận lợi để khoa học xã hội Việt Nam, trong đó có đội ngũ cán bộ giảng dạy khoa học xã hội của các trường đại học nói chung và đại học sư phạm nói riêng, tham gia thiết thực có hiệu quả trong việc cung cấp những luận cứ khoa học cho mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, nhất là về giáo dục đào tạo, dạy nghề.
3.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ khoa học giáo dục và khoa học cơ bản trong các trường đại học khối Sư phạm
Xây dựng chiến lược đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao nhằm tăng cường năng lực của các khoa học cơ bản của các trường Sư phạm thích ứng với thực tiễn phát triển mới của Việt Nam và giao lưu hội nhập quốc tế.
Tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Chuẩn hóa trong đào tạo, tuyển chọn và sử dụng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Nhà nước cần thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về vật chất và tinh thần để thu hút những người giỏi làm công tác giáo dục.
3.4. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo
Giáo dục trong thời kì hội nhập quốc tế phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định huớng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến. Mở rộng hợp tác đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân về giáo dục và đào tạo.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và đào tạo về khoa học xã hội. Tăng cường trao đổi thông tin giữa khoa học xã hội Việt Nam với khoa học xã hội khu vực và quốc tế.
Khuyến khích, thu hút các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, các nhà khoa học nước ngoài vào Việt Nam nghiên cứu, giảng dạy, và tiến hành các hoạt động khoa học khác tại các trường đại học nói chung và đại học sư phạm nói riêng.
Thu hút các tổ chức quốc tế, cá nhân trong đó có người Việt Nam ở nước ngoài, xây dựng cơ sở hạ tầng cho khoa học xã hội, tổ chức hoạt động thông tin khoa học xã hội. Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng của khối Sư phạm đi đào tạo ở nước ngoài, nhất là Khoa học giáo dục và Khoa học xã hội. Tạo điều kiện để ngày càng có nhiều giảng viên ở đại học sư phạm đạt trình độ quốc tế.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quan tâm hơn nữa đến các ngành khoa học cơ bản trong đó có khoa học xã hội trong khối Sư phạm, nhất là công tác nghiên cứu cơ bản phục vụ giảng dạy đào tạo đội ngũ nhà giáo. Tại các trường trong khối Sư phạm, Khoa học Giáo dục có quan hệ mật thiết với Khoa học cơ bản. Cán bộ giảng dạy phải giỏi Khoa học cơ bản thì mới dạy tốt. Ngược lại phải giỏi Khoa học Giáo dục thì mới đào tạo giáo viên có chất lượng cao. Có lẽ nên có chương trình nghiên cứu đánh giá về nghiên cứu cơ bản, mối quan hệ giữa Khoa học cơ bản và Khoa học Giáo dục trong hệ thống Sư phạm để có các quyết sách về nghiên cứu, đào tạo giai đoạn 2011 - 2020 trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.
Nếu có kinh phí, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên cho khối Sư phạm tổ chức viết mới những bộ giáo trình riêng của các Khoa học cơ bản. Có thể thử làm thí điểm viết giáo trình kết hợp Khoa học giáo dục và Khoa học cơ bản trong một vài cuốn sách để rút kinh nghiệm.
PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ - Viện trưởng Viện KHXH - ĐHSP Hà Nội