ĐỖ XUÂN THẢO - LÊ HẢI YẾN
Trường ĐHSP Hà Nội
1. Nên hiểu và quan niệm về triết lý giáo dục như thế nào?
Triết lý giáo dục Việt Nam cần như thế nào để phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập? Có phải giáo dục Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập vì thiếu triết lý dẫn đường? Tất cả các vấn đề trên đã được đưa ra phân tích, thảo luận tại Hội thảo về triết lý giáo dục Việt Nam do Viện KHGD và Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh từ năm 2011.
Hiện nay, do quan niệm chưa đúng về triết lý, nên nhiều người thấy đó là điều còn mơ hồ, ai hiểu thế nào cũng được. Ví dụ, có người bảo xưa nay ta đã có triết lý giáo dục rồi, đó là: Tiên học lễ, Hậu học văn. Nhưng nhiều người bảo đó là triết lý từ thời Khổng Mạnh, có từ hàng nghìn năm về trước, lúc ấy chỉ có 1/10.000 người được đi học, mục đích học để ra làm quan... nên không thể mang triết lý ấy áp dụng vào thời nay. Hơn nữa nếu hỏi Lễ là gì? Văn là gì? Chắc chắn mỗi thời hiểu một cách, mỗi người hiểu một kiểu. Vậy không thể coi đó là triết lý giáo dục được.
Theo chúng tôi: Triết lý là cái lý sâu xa, cái lẽ huyền diệu của một học thuyết, một sự biện minh đầy đủ cho một sự nghiệp hay một công việc lớn của xã hội được mọi người tâm phục khẩu phục và nó như kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường để đạt được mục đích cho sự nghiệp ấy. Tất nhiên triết lý ấy phải phù hợp với từng thời đại, không thể có chân lý vĩnh cửu. Nếu hiểu như vậy, thì triết lý giáo dục phải là điều mà tất cả mọi người tán đồng và trông đợi, thấy đó đúng là chân lý là mục đích thực sự, phải làm đúng như vậy thì mới có thể đạt được mục đích, chân lý. Triết lý giáo dục phải trả lời được rõ ràng câu hỏi: Học để làm gì? hay nói rộng hơn: Mục đích giáo dục hiện nay là gì?
Ví dụ, bàn về triết lý giáo dục, ta thử xem Văn bản Bốn trụ cột của giáo dục (The Four Pillars of Education) của UNESCO - ta thấy tính triết lý toát ra trong mọi phần của văn bản, tập trung nhất ở Bốn trụ cột của giáo dục. Chúng tôi xin phép tóm lược văn bản như sau: Một nền giáo dục có sức sống là nhờ trong xã hội có nhiều người học và đều ham học. Sự ham học sẽ mạnh mẽ và bền vững nếu người học đạt được mục đích mà trước khi học họ tự đặt ra cho mình, miễn là mục đích này phù hợp với lợi ích của xã hội. Như vậy, nhu cầu và mục đích học tập là cái trụ móng để ngôi nhà giáo dục đứng vững.
* Cột trụ thứ nhất: Học để biết
Biết thu nhận thông tin, biết tiếp thu tri thức, biết tạo lập và sử dụng thành thạo tri thức như là các công cụ tâm lý. Vì kiến thức vô cùng phong phú và có thể phát triển vô bờ bến, nên thật vô ích khi ai đó nỗ lực học để biết hết tất cả. Nhà trường cần dạy học sinh khả năng suy nghĩ (kĩ năng tư duy), kỹ năng ghi nhớ và tập trung. Đó là ba loại công cụ tâm lý rất cơ bản, chúng như những chiếc chìa khóa để con người tiếp tục mở các cánh cửa của tri thức: Tạo ra cách dạy và học tích cực, tiến tới tự học. Người ta sẽ học một - biết mười. Giáo dục trong nhà trường chỉ được coi là có kết quả khi nó tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập và rèn luyện suốt đời.
- Học tập vừa là phương tiện vừa là mục đích: Học tập giúp con người hiểu được môi trường sống và làm việc của mình để mà sống có nhân phẩm. Học tập đem lại sự thỏa mãn về hiểu biết, tư duy và hành động nhằm làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Học tri thức thì chỉ biết tri thức, học phương pháp thì sẽ biết cách chiếm lĩnh các tri thức. Hiện nay tri thức của thế giới cứ khoảng 7 năm sẽ tăng gấp đôi. Vì thế chương trình phải chọn lọc, tinh giản không thể quá tải và ôm đồm. Nếu người học chỉ tiếp thu tri thức ở nhà trường thì sau khi ra trường sẽ quên đi và mau chóng lạc hậu. Người ta tính rằng với khối kiến thức của một kỹ sư thì chỉ sau 3 năm khối kiến thức đó sẽ trở nên lạc hậu, cần được bổ sung. Do đó việc học tập cần phải được tiếp tục thường xuyên, suốt đời và bằng nhiều phương thức và ở mọi nơi, mọi lúc không phải chỉ ở nhà trường.
* Cột trụ thứ hai: Học để làm
Học để làm liên quan mật thiết đến câu hỏi làm thế nào để giáo dục và đào tạo có thể trang bị cho người học các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc sau này. Xã hội chỉ trả tiền nếu mình “biết làm”, chứ không dừng lại ở “biết nói”. Đặc điểm nền kinh tế hậu công nghiệp ở thế kỷ XXI, trong quá trình sản xuất mới không còn tuyệt đối hóa kỹ năng nghề nghiệp mà vai trò trình độ chuyên môn của từng người được đề cao. Do đó giáo dục phải chuyển từ đào tạo “kỹ năng làm” sang hình thành một năng lực chuyên môn. Năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, công nghệ (biết cách làm) và kỹ năng sống theo nghĩa rộng (khả năng giao tiếp, hợp tác, điều hành, giải quyết vấn đề, sáng tạo...). Trong nền kinh tế tri thức học và làm là một, không còn tách riêng thời đi học và thời đi làm. Quan niệm ngày nay không còn “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” mà là “nhất nghệ tinh, đa nghệ tri’’... 60 - 80% dân số trong độ tuổi lao động ở các nước công nghiệp hóa đang làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. ...Mô hình làm việc mới, trong cả lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, sẽ cần đến việc ứng dụng mạnh mẽ thông tin, kiến thức và óc sáng tạo... Năng lực cá nhân sẽ được đặt trên nền tảng kiến thức lý thuyết và thực hành kết hợp với động lực cá nhân và các kỹ năng tốt về giải quyết vấn đề, ra quyết định, giàu sáng kiến sáng tạo và làm việc theo nhóm... Ở cả hai khu vực này, thông tin và giao tiếp giữ vai trò sống còn.
Tóm lại, nhân loại bước vào thế kỉ XXI với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Học để làm không phải là lao động cơ bắp hay dây chuyền công nghiệp đơn thuần nữa mà làm bằng tư duy, bằng trí tuệ nên ở tất cả các công việc muốn có năng suất và hiệu quả cao đều phải cần các kĩ năng tư duy - kĩ năng mềm (kĩ năng giải quyết vấn đề, tư duy tích cực - sáng tạo, kĩ năng thích ứng, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin, kĩ năng ứng xử giao tiếp và ngoại ngữ, kĩ năng học và tự học....). Đó chính là các kĩ năng và đòi hỏi của nguồn nhân lực chất lượng cao.
* Cột trụ thứ ba: Học để cùng chung sống
Giáo dục có vai trò to lớn đối với tiến bộ xã hội, giúp giải quyết các vấn đề mâu thuẫn một cách hòa bình, giúp con người biết tôn trọng các khác biệt, các giá trị tinh thần của người khác, dân tộc khác. Trong thời đại mới, với nền kinh tế hội nhập, giáo dục lại càng có vai trò to lớn giúp con người có thể cùng chung sống không bị lạc hậu trong một thế giới biến đổi và phát triển không ngừng. Nội dung giáo dục cần chú ý hai vấn đề:
- Học biết phát hiện ra người khác: Xã hội loài người phát triển không chỉ có cái riêng của từng người, từng dân tộc mà còn đi đôi với cái chung của loài người. Do đó mỗi người, mỗi dân tộc phải biết rõ mình, đồng thời phải hiểu người khác, phải biết phát hiện ra người khác. Một trong những nhiệm vụ của giáo dục là giúp người học vừa nhận thức về sự đa dạng vừa hiểu được sự tương đồng và sự phụ thuộc lẫn nhau của con người. Ngay một em bé lớp mẫu giáo đã phải học cách chung sống với bạn, với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Đứa trẻ học môn Đạo đức, hoặc Giáo dục Công dân... không phải chỉ học lí thuyết suông mà phải có kỹ năng ứng xử tốt trong gia đình, nhóm bạn, xã hội...
- Học cùng làm việc vì các mục đích chung: Con đường tốt nhất để sống còn, đó là học chung sống với người khác, học nghe điều người khác nói. Giáo dục cần tập trung hướng con người đến những mục đích chung.
* Cột trụ thứ tư: Học để tự khẳng định mình hay Học để làm người
Nguyên tắc cơ bản của giáo dục là giáo dục phải đóng góp vào sự phát triển của mỗi cá thể. Mục tiêu của phát triển là sự hoàn thiện toàn diện của một con người về tâm lý và thể xác, trí tuệ và tình cảm, thái độ đạo đức, tinh thần trách nhiệm cá nhân và các giá trị tinh thần khác.
Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là mang lại cho mọi người tự do suy nghĩ, phán đoán, tình cảm và trí tưởng tượng để có thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Học để tự khẳng định mình là tạo sự phát triển toàn diện con người với toàn bộ sự phong phú của nhân cách từng người và toàn bộ các hình thái thể hiện mình... Ở trường học, nghệ thuật và thơ văn cần phải có chỗ đứng quan trọng hơn cái chỗ mà hiện nay nó được đặt bởi một số nền giáo dục mang tính vụ lợi hơn là văn hóa. Mối quan tâm phát triển trí tưởng tượng và óc sáng tạo cũng sẽ khôi phục lại giá trị của nền văn hóa và tri thức...
Chính vì học để tự khẳng định mình hay là học để làm người nên vai trò của khoa học xã hội và nhân văn phải được đặt đúng tầm, nó phải là nền tảng của giáo dục. Vì thế, giáo dục chính quy phải thiết kế chương trình học sao cho người học có đủ thời gian và cơ hội để đến với các dự án hợp tác, hoạt động xã hội ngay từ những năm đầu đời, bắt đầu từ những hoạt động thể thao và văn hóa. Phương pháp này cũng cần tạo điều kiện cho người học tham gia vào các hoạt động xã hội nhân đạo như chung tay làm vệ sinh các khu nhà ổ chuột, giúp đỡ những người kém may mắn, hoạt động từ thiện, lên kế hoạch giúp đỡ những người cao tuổi...
Ai cũng thấy nền giáo dục truyền thống phải thay đổi do sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức: Kiến thức của loài người tăng lên nhanh chóng, cứ vài năm kiến thức của loài người lại tăng lên gấp đôi. Điều vừa học được có nguy cơ nhanh chóng lạc hậu, phải cần bổ sung. Do vậy cần phải học suốt đời (Lifelong Learning). Ai cũng phải học, người học thuộc mọi lứa tuổi do vậy khái niệm xã hội học tập ra đời thay thế cho xã hội công nghiệp của thế kỷ trước ...
Theo chúng tôi, những quan niệm dẫn ra trên đây chính là một phần quan trọng nhất của triết lý giáo dục thế kỷ XXI - thế kỷ của nền kinh tế tri thức và hội nhập. Sở dĩ nói như vậy vì nó trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? nói rộng hơn: Mục đích của giáo dục ngày nay là gì? Và: Cần làm như thế nào để có thể đạt được mục đích ấy? Trả lời đúng được các câu hỏi ấy chính là quan niệm đúng về triết lý giáo dục.
Tại sao chúng ta không xem các quan điểm trong Văn bản Bốn trụ cột của giáo dục (The Four Pillars of Education) của UNESCO như là một trong các triết lý quan trọng của giáo dục ngày nay và vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh của Việt Nam? Nếu cần cụ thể hóa trong điều kiện Việt Nam thì cần lưu tâm đến việc hòa nhập nhưng không hòa tan nghĩa là vẫn giữ các bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong các định hướng chiến lược và phát triển giáo dục nước nhà. Ví dụ:
- Học để chung sống: Giúp giải quyết các vấn đề mâu thuẫn một cách hòa bình, giúp con người biết tôn trọng các khác biệt, các giá trị tinh thần của người khác, dân tộc khác... Tuy nhiên cần giáo dục lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc, giữ bản sắc tốt đẹp của dân tộc, không đánh mất mình, không theo đòi một cách mù quáng.
- Học để tự khẳng định mình hay là Học để làm người: Hiện nay, do tốc độ phát triển quá nhanh của khoa học, kĩ thuật và kinh tế nên nhiều khi các giá trị nhân bản bị đảo lộn, các quan niệm về đạo đức, nhân văn truyền thống bị xem thường và dễ bị buông trôi. Vì vậy vai trò của khoa học xã hội và nhân văn phải được đặt đúng tầm, nó phải là nền tảng của giáo dục, phải định hướng các giá trị nhân văn, đạo đức, kĩ năng sống cho xã hội và thế hệ trẻ.
Chúng ta là một thành viên của UNESCO, đang từng bước hội nhập với quốc tế (ví dụ, tham gia WTO), cùng các nước bước vào thế kỉ XXI với mục tiêu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp hiện đại, đang cần một nguồn nhân lực chất lượng cao nghĩa là đang rất cần một nền giáo dục có chất lượng thực sự. Vì vậy nếu chúng ta thấy những quan điểm trong văn bản Bốn trụ cột của giáo dục của UNESCO là đúng đắn thì Việt Nam cần xem đây là một trong các triết lý quan trọng của giáo dục nước nhà.
2. Việc đầu tiên là cần xác định rõ mục tiêu giáo dục
2.1. Phân định mục đích và mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục là sự mong muốn, là dự kiến về kết quả đạt được của một quá trình giáo dục nhất định. Những mong muốn này có tính chất lý tưởng, là cái mà con người đang hướng tới, đang phấn đấu để đạt được. Nó có tác dụng định hướng, điều khiển hoạt động giáo dục trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Có thể phân biệt mục đích và mục tiêu qua một số dấu hiệu:
Mục đích
|
Mục tiêu
|
1. Có tính định hướng, tính lí tưởng
2. Thời gian thực hiện dài
3. Tính rộng lớn khái quát của vấn đề
4. Không thể đo được kết quả
5. Cấu trúc phức tạp, được tạo thành do nhiều mục tiêu kết hợp lại
|
1. Có tính cụ thể với hành động và phương tiện xác định
2. Thời gian thực hiện ngắn, xác định
3. Tính xác định của vấn đề
4. Kết quả có thể đo được
5. Là một bộ phận của mục đích
|
Trước đây, ở Việt Nam người ta thường nói: Đào tạo ra những con người vừa hồng vừa chuyên, hoặc: Đào tạo ra những con người có đủ tài đức, hoặc: Mục tiêu giáo dục bao gồm các mặt đức, trí, thể, mỹ, lao động.... Và để đạt được các mục tiêu ấy thì: Tiên học lễ, Hậu học văn... Song, nếu hỏi các nhà quản lý giáo dục và các giáo viên hiểu và giải thích về mục tiêu trên như thế nào, đặc biệt nếu hỏi về các kĩ năng kiến thức và tư duy trí tuệ học sinh cần phải đạt được là gì, Lễ bây giờ là gì? Văn bây giờ là gì?... thì chắc chắn sẽ có rất nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau. Vì vậy việc đầu tiên là cần xác định rõ mục tiêu giáo dục để tất cả các cấp quản lí giáo dục, tất cả các thầy cô giáo và toàn xã hội cùng thống nhất hiểu đúng đắn về mục tiêu giáo dục từ đó mọi cấp giáo dục và toàn xã hội đều hướng tới thực hiện được mục tiêu ấy.
Để làm sáng tỏ các luận cứ trên, chúng ta cần nghiên cứu và làm sáng tỏ hai khái niệm quan trọng: Chỉ số chất lượng giáo dục và Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực đối với mục tiêu giáo dục:
Bảng Chỉ số chất lượng Giáo dục
TT
|
Tên nước
|
Chỉ số tổng hợp (về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực)
|
Sự thành thạo về tiếng Anh
|
Sự thành thạo về Công nghệ cao
|
1
|
Hàn Quốc
|
6,91
|
4,0
|
7,0
|
2
|
Singapore
|
6,81
|
8,33
|
7,83
|
3
|
Nhật Bản
|
6,50
|
3,50
|
7,50
|
4
|
Đài Loan
|
6,04
|
3,86
|
7,62
|
5
|
Ấn Độ
|
5,76
|
6,62
|
6,75
|
6
|
Trung Quốc
|
5,73
|
3,62
|
4,37
|
7
|
Malaysia
|
5,59
|
4,00
|
5,50
|
8
|
Hồng Kông
|
5,20
|
4,50
|
5,43
|
9
|
Philipine
|
4,53
|
5,40
|
5,00
|
10
|
Thái Lan
|
4,04
|
2,82
|
3,27
|
11
|
Việt Nam
|
3,79
|
2,62
|
2,50
|
12
|
Indonesia
|
3,44
|
3,00
|
2,50
|
(Trích Bảng Chỉ số chất lượng Giáo dục trên trang Web Chỉ số CLGD - Báo cáo của Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục ngày 10/11/2003).
Đây là sự đánh giá của các tổ chức quốc tế, vậy các chỉ số đánh giá chất lượng trên bao gồm các thành tố gì? Tại sao Chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực 12 nước ở khu vực châu Á, Việt Nam và Indonesia có chỉ số thấp nhất ở cả 3 tiêu chí?
Để nghiên cứu xác định được mục tiêu giáo dục, cần nghiên cứu các tiêu chí về chất lượng giáo dục để từ đó có thể xác định các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu, đảm bảo được yêu cầu chất lượng giáo dục. Đối với thuật ngữ chỉ số chất lượng giáo dục, chúng ta cần tìm hiểu sâu về chỉ số tổng hợp.
Chỉ số tổng hợp (về chất lượng GD và nguồn nhân lực) có liên quan chặt chẽ với việc xác định và thực hiện đúng đắn mục tiêu giáo dục. Tại sao thi cử và điểm số của học sinh Việt Nam luôn đạt trên 90% trong khi các tổ chức quốc tế đánh giá chỉ số chất lượng giáo dục Việt Nam chỉ có 3,79/10.
Trong giáo dục, mục tiêu là đích đặt ra, mô tả điều mà người học sẽ hiểu được và làm được sau khi học. Mục tiêu là dẫn xuất của mục đích cuối cùng trong giáo dục và mục tiêu chung về đào tạo, chia thành mục tiêu trung gian ở các mức khác nhau, rồi thành mục tiêu đặc thù - (Pédagogie: Dictionnaire des concepts clés - F.Raynal & A.Rieunier). Có thể hiểu đơn giản mục tiêu giáo dục là: Chúng ta định đưa ra những mẫu người có những kiến thức, kĩ năng và phẩm chất gì trong tương lai?
UNESCO đề xướng 4 mục đích học tập: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Trong khi, nhà trường của chúng ta hiện nay đang nặng về: Học để biết, nghĩa là về cơ bản chỉ đạt được một trong bốn mục đích của UNESCO.
Ngân hàng Thế giới gọi thế kỉ XXI là kỉ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng - Skills Based Economy. Năng lực của con người được đánh giá trên cả ba thành tố: Kiến thức, kỹ năng và thái độ (http://www.librarything.com). Nhưng tất cả các kỹ năng về kiến thức, tư duy và các kỹ năng sống của học sinh Việt Nam còn yếu.
Nhiều nhà khoa học thế giới cho rằng: Để thành đạt trong cuộc sống thì các kĩ năng mềm chiếm tới 75%, kĩ năng cứng (kiến thức) chỉ chiếm 25%. Việt Nam ta thì quan niệm ngược lại, nên chủ yếu dạy kiến thức mà ít quan tâm đến rèn luyện kỹ năng.
2.2. Mục tiêu giáo dục trong các nhà trường hiện đại
Chúng ta định đưa ra cho xã hội những mẫu người có những kiến thức, kĩ năng và phẩm chất gì để sống và làm việc trong tương lai? Trả lời câu hỏi trên chính là xác định rõ mục tiêu giáo dục.
Việc xác định rõ mục tiêu giáo dục là một điều rất quan trọng và cần thiết vì nó định hướng chiến lược đầu tư giáo dục, xây dựng nội dung chương trình, chọn lọc nội dung, xác định và chi phối toàn bộ công tác quản lý, điều hành các bậc học và toàn bộ phương pháp dạy và học.
Có thể nói vắn tắt: Sản phẩm của giáo dục là năng lực và chất lượng nguồn nhân lực tương lai của một đất nước.
Có nhiều cách hiểu và quan niệm về mục tiêu giáo dục, theo những tiếp cận giáo dục hiện đại, có thể tóm tắt mục tiêu giáo dục ở các nhà trường phổ thông hiện nay bao gồm: Kiến thức, kỹ năng và thái độ (hay kiến thức, kỹ năng trí tuệ, kỹ năng sống - nhân cách).
Năng lực của con người hiện nay được đánh giá trên cả ba khía cạnh: Kiến thức, kỹ năng và thái độ, vậy mục tiêu của bậc học phổ thông là: Hình thành và phát triển được nền tảng tư duy trí tuệ của con người trong thời đại mới.
Như vậy mục đích hay mục tiêu cuối cùng của giáo dục không phải là khẩu hiệu chung chung mà phải là cái đích cụ thể, cái đích ấy phải hình dung được, xác định được, kiểm nghiệm được, đánh giá được...
Ví dụ, năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vậy xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần những mẫu người như thế nào? Mẫu người ấy cần những loại hình kiến thức gì? Cần các kỹ năng tư duy và phẩm chất trí tuệ gì? Cần các kỹ năng sống và phẩm chất đạo đức gì? Đó chính là chất lượng nguồn nhân lực trong xã hội tương lai. Đó chính là các tiêu chí tuyển chọn nhân sự của các nhà sản xuất kinh doanh và cũng chính là mục tiêu giáo dục mà nhà trường cần theo đuổi.
Mục tiêu giáo dục ngày nay được tóm tắt như sau: